Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5581:1991 (ISO 6322-3: 1989) về bảo quản ngũ cốc và đậu hạt – kiểm tra sự xâm nhập của vật gây hại do Ủy ban Khoa học Nhà nước ban hành đã được thay thế bởi Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 7857-3:2008 (ISO 6322-3 : 1989) về bảo quản ngũ cốc và đậu đỗ – Phần 3: Kiểm soát sự xâm nhập của dịch hại .
Nội dung toàn văn Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5581:1991 (ISO 6322-3: 1989) về bảo quản ngũ cốc và đậu hạt – kiểm tra sự xâm nhập của vật gây hại do Ủy ban Khoa học Nhà nước ban hành
TIÊU CHUẨN VIỆT NAM
TCVN 5581:1991
(ISO 6322-3: 1989)
BẢO QUẢN NGŨ CỐC VÀ ĐẬU HẠT
KIỂM TRA SỰ XÂM NHẬP CỦA VẬT GÂY HẠI
Storage of cereals and pulses
Control of attack by pests
TCVN 5581-1991 phù hợp với ISO 6322-3: 1989.
TCVN 5581-1991 do Hội Tiêu chuẩn Việt Nam biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn – Đo lường- Chất lượng đề nghị và được Uỷ Ban Khoa học nhà nước ban hành theo quyết định số 691/QĐ ngày 12 tháng 11 năm 1991.
Tiêu chuẩn này giới thiệu các biện pháp kiểm tra sự xâm nhập của vật gây hại đối với ngũ cốc và đậu đỗ trong quá trình bảo quản.
Tiêu chuẩn này phù hợp với ISO 6322-3:1989.
1. Đối với vật gây hại có xương sống
1.1. Qui định chung
Khả năng ăn ngũ cốc của chim, chuột đồng, chuột nhà và các loài gặm nhấm khác không bị hạn chế bởi chất lượng hay tình trạng của ngũ cốc, mà chỉ bị hạn chế bởi khả năng tiếp cận của chúng với ngũ cốc.
Hậu quả của sự xâm nhập của chim, chuột đồng, chuột nhà và các loại gặm nhấm khác gây ra là ngũ cốc bị nhiễm bẩn, vương vãi, khối lượng hao hụt, chất lượng giảm sút. Ngũ cốc nhiễm bẩn có thể dẫn tới hiệu quả là không thể dùng chúng để xay bột vì trong bột thành phẩm sẽ lẫn khá nhiều lông của loài gặm nhấm đó.
Những biện pháp đề phòng chủ yếu là ở sự quan tâm về vệ sinh kho tàng, và tăng cường khả năng phòng chống sự tiếp cận của chuột bọ, mặc dù hàng ngày người ta vẫn dùng các loại bả chuột thuộc nhóm thuốc chống đông (ví dụ: bả vafarin) để diệt trừ chuột đồng và chuột nhà. Trong trường hợp phát hiện có hiện tượng kháng chống đông thuốc ở chuột thì việc dùng loại thuốc độc mạnh hơn có thể được xem là cần thiết.
Cần xua đuổi chim chóc khỏi kho chứa ngũ cốc bằng các biện pháp đánh bắt. Có thể bẫy, bắn hoặc đánh bả chim, tuy nhiên ở một số nước có sự hạn chế đáng kể đối với các biện pháp diệt trừ chim muông do có các luật bảo vệ chim và dư luận xã hội gây ra.
1.2. Diệt trừ
Có thể diệt trừ chuột đồng và chuột nhà bằng bẫy hoặc bằng bả độc có tác dụng ngay trong vòng vài phút sau khi chuột ăn phải (loại chất độc tác dụng nhanh) hoặc bằng bả độc có tác dụng sau một thời gian (loại chất độc tác dụng chậm) hoặc bằng cách xông hơi. Biện pháp xông hơi thường chỉ được dùng như một phần trong cả hệ thống diệt trừ tổng hợp vì nó thường không có tác dụng kéo dài.
Biện pháp xông hơi diệt trừ các loại gặm nhấm thường được thực hiện với liều lượng nhỏ hơn, thời gian xông hơi ngắn hơn so với trường hợp diệt trừ sâu mọt. Từ đó suy ra rằng việc xông hơi diệt trừ sâu mọt cũng có tác dụng diệt trừ loài gặm nhấm. Các biện pháp diệt trừ có xông khói hoặc dùng chất độc tác dụng nhanh chỉ được thực hiện bởi các cán bộ kỹ thuật đã được đào tạo theo quy định của nhà nước.
2. Đối với vật hại không xương sống
2.1. Đại cương
Sự xâm nhập của côn trùng và bọ ve chịu ảnh hưởng bởi khả năng tiếp cận với ngũ cốc và đậu hạt cũng như chủng loại và tình trạng của hạt.
Sự xâm nhập không những có thể gây hao hụt về khối lượng và nhiễm bẩn mà còn có thể làm thay đổi tình trạng và phẩm chất của hạt.
Trường hợp ngũ cốc bị cả hai loại sâu bọ hại trong kho và sâu bọ hại ngoài đồng xâm nhập. Ví dụ: Thysanoptera hoặc Lepidoptera/ ví dụ: Apamea Sordens (Hufn.)/ có thể dẫn đến sự nhiễm bẩn bột thành phẩm bởi xác sâu bọ.
2.2. Giai đoạn đầu của sự xâm nhập
2.2.1. Đậu hạt
Trong thời kỳ đang phát triển, đậu có thể bị xâm nhập bởi các loài sâu và mọt cánh cứng khác nhau (Lapidoptera và Coleoptera)/ ví dụ: Druchus pisorum (L.) (mọt đậu)/ bằng cách đẻ trứng vào quả đậu đang lớn. ấu trùng sẽ chui vào hạt và tiếp tục phát triển trong hạt đậu khô sau khâu thu hoạch, bọ trưởng thành sẽ chui ra khỏi hạt, bay ra đồng và lại bắt đầu một chu kỳ sinh trưởng mới. Có một số loài/ví dụ: Callosobruchus maculatus (F.) (mọt đậu bò) và Acanthoscelidesobtetus có khả năng tiếp tục sinh sản trong hạt đậu khô. Ta có thể nhận biết những hạt có chứa nhộng hoặc mọt trưởng thành sắp chui ra nhờ quan sát lớp vỏ mỏng bên ngoài hạt, còn gọi là “cửa sổ”, che cửa hang ra của mọt. Hạt đỗ có mọt đã chui ra đều có lỗ hình tròn gọn.
Khi bảo quản đậu hạt cần nhớ rằng chúng đã bị côn trùng xâm nhập ngay từ trước khi đem bảo quản. Nguy cơ xâm nhập của côn trùng phụ thuộc vào các điều kiện địa phương (thời tiết, phương pháp diệt trừ được áp dụng trên đồng ruộng, v.v…). Nguy cơ này là lớn nhất tại các nước nhiệt đới là nơi có các điều kiện rất thích hợp để côn trùng sống sót và phát triển mau chóng.
2.2.2. Ngũ cốc
Hiện tượng côn trùng hại trong kho xâm nhập ngũ cốc ngay từ ngoài đồng phần lớn đều xảy ra ở các vùng nhiệt đới và ôn đới, nhưng vẫn xảy ra tại các vùng ấm áp của các vùng hàn đới. Thông thường đó là vì côn trùng bay ra từ các nhà kho rồi đẻ trứng vào các hạt đang chín ngoài đồng. Đặc biệt một vài chủng loại ngô lai cải tiến có bắp ngắn thường rất dễ bị côn trùng xâm nhập sớm như kể trên. Các loài côn trùng xâm nhập sớm đó thường là Sitotroga cerealella (Oliv.) (Sâu Angoumois) và Sintophilus zea-mais (Motsch) (mọt ngô lớn).
Tại hầu hết các vùng hàn đới, sự xâm ngập sớm của côn trùng hại trong kho thường bắt đầu sau khi ngũ cốc thu hoạch xong được xếp vào kho, nhưng chúng vẫn có thể bị xâm nhập ngay ngoài đồng nếu trong máy gặt đập liên hợp hoặc trong bao tải có chứa côn trùng.
Tại các vùng để xảy ra sự xâm nhập ngoài đồng của côn trùng hại trong kho, khi bảo quản ngũ cốc ta cần lường tới nguy cơ xâm nhập của chúng. Tại các vùng ôn đới, người ta có thể bảo quản ngũ cốc trên cơ sở ngũ cốc mới thu hoạch từ cánh đồng về vẫn chưa bị côn trùng xâm nhập, trừ ngoại lệ một vài loài bọ ve nhất định.
Một vài loại bọ ve lẫn trong ngũ cốc chở từ ngoài đồng về có thể vẫn tiếp tục sống được trong điều kiện nhà kho (ví dụ Tyrophagus longior Gerv.) nhưng thông thường loài bọ ve chủ yếu vẫn là loài bọ ve hại trong kho/ví dụ Acarus siro L. (bọ bột mì)/.
Trường hợp ngũ cốc được bảo quản trong điều kiện độ ẩm tương đối của không khí ở mức cao hoặc hàm lượng ẩm của ngũ cốc vượt quá 15% (tính theo khối lượng) thì vấn đề bọ ve trở nên đặc biệt nghiêm trọng, kể cả khi nhiệt độ quá thấp, không còn phù hợp cho sự phát triển của côn trùng.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của côn trùng và bọ ve
Một vài loài côn trùng/ví dụ Sitophilus granarius (L.) (mọt ngũ cốc)/ có thể xâm nhập cả ngũ cốc còn nguyên hạt. Tuy nhiên khi hạt ngũ cốc đã bị tróc vỏ, bị gẫy trong quá trình thu hoạch và vận chuyển, bị lẫn bụi ngũ cốc thì đều tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều loài côn trùng và bọ ve khác xâm nhập/ví dụ Oryzaephilus surinamensis (L.) (mọt răng cưa) và Acarus siro L. (bọ bột mì).
Những loài côn trùng và vật hại có thể gặp trong ngũ cốc lưu kho gồm cả các loài côn trùng đục lỗ trong phần nội nhũ của hạt/ ví dụ Sitophilus granarius (L.) (mọt ngũ cốc) và Sitophilus oryzao (L.) (mọt gạo)/, những côn trùng ăn phôi hạt/ví dụ Cryptolestes ferrugineus (Steph.) (mọt ngũ cốc gỉ sắt), Plodia interpunctella (Hubn.) (sâu ấn Độ) và Acarus siro L. (bọ bột mì)/, những loài xâm nhập hạt vỡ và bụi ngũ cốc/(ví dụ Tribolium castaneum (Herbst.) (mọt bột mì gỉ sắt) và Glycyphagus destructor (Scbr.) (bọ cỏ)/, những côn trùng sống nhờ nấm mốc/ví dụ họ nấm Cryptophagidae và Mycetophagidae)/, những loài sống ký sinh hoặc ăn thịt các côn trùng và họ ve khác (ví dụ Braconidae và Cheyletidae) và những loài ăn xác côn trùng chết (ví dụ Dermestidae). Nhiều loài có khả năng thực hiện nhiều vai trò/ví dụ Tenebroides mauritanicus (L.) (bọ cánh cứng Cadelle) là loài ăn côn trùng còn sống, đôi khi ăn cả phôi hạt/.
Các nhân tố chính có ảnh hưởng tới sự phát triển và hoạt động của côn trùng và bọ ve là:
a) Nhiệt độ;
b) Hàm lượng ẩm trong hạt;
c) Độ ẩm tương đối của không khí bao quanh trực tiếp;
d) Đặc tính của hạt.
Trong điều kiện nhiệt độ nhỏ hơn 10oC hoặc lớn hơn 35oC phần lớn sâu mọt hạt ngũ cốc lưu kho đều không có khả năng khép kín quá trình phát triển hoàn chỉnh từ trứng tới con trưởng thành, giao phối và tiếp tục đẻ trứng. Nhiệt độ cần thiết tối thiểu để hầu hết các loài sâu mọt quan trọng sinh sôi là khoảng 15oC, đồng thời giới hạn dưới của khoảng nhiệt độ tối ưu ít nhất phải là 20oC. Đối với hầu hết các vật hại nhỏ thì nhiệt độ giới hạn và tối ưu thường thấp hơn 6oC.
Hàm lượng ẩm trong hạt ảnh hưởng trực tiếp tới côn trùng và bọ ve bởi vì chúng nhận nước cùng với thức ăn, và nó còn ảnh hưởng gián tiếp thông qua việc điều chỉnh độ ẩm tương đối của không khí giữa các hạt. Đối với từng loài đều có từng mức giới hạn độ ẩm tương đối tối thiểu, nếu thấp hơn thì côn trùng không thể phát triển hoàn chỉnh hoặc sẽ chết. Ngũ cốc có hàm lượng ẩm nhỏ hơn 9% (theo khối lượng) ( độ ẩm tương đối cân bằng khoảng 30%) nói cibm an toàn, không bị côn trùng hoặc bọ ve xâm nhập, mặc dù vẫn có loài Trogoderma granarium Everts (bọ cánh cứng Khapra) có thể ăn hạt có hàm lượng ẩm 2% (theo khối lượng).
Đối với từng loài đều tồn tại một sự phối hợp giữa nhiệt độ và độ ẩm thích hợp cho sự sinh sôi nhanh nhất. Vì vậy các loài côn trùng khác nhau đều có xu hướng xuất hiện ở các vùng khác nhau trên thế giới, nơi có điều kiện khí hậu phù hợp với chúng nhất.
Tại phụ lục A có giới thiệu tổng quát về các điều kiện tối ưu cho các loài côn trùng hạt ngũ cốc phổ biến nhất.
2.4. Sự toả nhiệt trong ngũ cốc dưới tác động của côn trùng và bọ ve.
Trong các đống lớn ngũ cốc đổ rời hoặc đóng bao có xu hướng tự ổn định các điều kiện về nhiệt độ và độ ẩm trong đống. Chính là các điều kiện này, chứ không phải là sự giao động hàng ngày tại các khoảng trống trong kho, gây ảnh hưởng trực tiếp tới côn trùng. Những thay đổi cục bộ về nhiệt độ và độ ẩm trong đống được côn trùng và bọ ve tận dụng để nhích dần về nơi có thức ăn thích hợp. Nếu điều kiện ở đó vượt quá mức tối thiểu ghi trong phụ luc A thì côn trùng sẽ sinh sôi. Trong khi phát triển chúng sinh ra nhiệt. Quá trình sinh nhiệt diễn ra nhanh hơn là bị mất đi. Nhiệt độ trong đống hạt tăng lên, càng đẩy nhanh quá trình phát triển của côn trùng. Kết quả là nhiệt độ sẽ tăng quá mức thích hợp, nhưng thường không quá 42 oC, và những con côn trùng có khả năng bò ra phía ngoài đều bò ra, những con không thể bò ra (ví dụ các ấu trùng nằm trong hạt ngũ cốc) cuối cùng đều bị chết. Kết quả là tất cả côn trùng sống đều tập trung ngoài bề mặt đống.
Gradient nhiệt độ được xác lập bên trong đống ngũ cốc, độ ẩm sẽ chuyển dịch từ nơi nóng bên trong đống ra nơi lạnh hơn trên bề mặt đống. Nếu nhiệt độ ngoài bề mặt thấp hơn nhiệt độ hoá sương luồng khí ẩm từ bên trong ra thì sẽ xuất hiện hiện tượng ngưng tụ làm cho hạt có thể nảy mầm. Hàm lượng ẩm và độ ẩm tương đối cân bằng có thể tăng cục bộ tới mức khiến cho nấm mốc bắt đầu phát triển. Như vậy trong đống hạt, trên danh nghĩa là an toàn trong thời gian bảo quản vô thời hạn, “quá trình toả nhiệt hạt khô” do côn trùng gây ra ban đầu có thể biến thành “ quá trình toả nhiệt hạt ẩm” do vi sinh vật gây ra. Nhiệt độ sinh ra trong “quá trình toả nhiệt hạt ẩm” đôi khi vượt quá 62oC và thường được duy trì ở khoảng 52oC.
2.5. Các biện pháp phòng ngừa và diệt trừ sự xâm nhập của côn trùng và bọ ve
2.5.1. Phòng ngừa sự xâm nhập
Có thể chống xâm nhập bằng cách loại bỏ khả năng tiếp cận của côn trùng và bọ ve, bằng cách duy trì môi trường không thuận lợicho quá trình phát triển của chúng, hoặc bằng cách áp dụng các biện pháp xử lý bảo vệ hạt. Các biện pháp kỹ thuật cơ bản để chống xâm nhập là tăng cường vệ sinh (ví dụ loại bỏ tất cả các hạt hỏng cũng như bụi hạt mà côn trùng và bọ ve có thể dựa vào đó để phát triển), xử lý kho rỗng, khống chế môi trường… bằng các biện pháp sau:
a) Bảo quản hạt ở điều kiện nhiệt độ hoặc độ ẩm thấp hơn mức cần thiết cho quá trình sinh sản của côn trùng, bọ ve (ví dụ bằng cách sấy khô, bảo quản trong kho có thông gió, kho lạnh);
b) Bảo quản trong kho kín khí hoặc kho dùng khí trơ;
c) Bảo quản những hạt không chứa côn trùng trong các container có khả năng chống côn trùng xâm nhập;
d) Thêm thuốc sâu (ví dụ pyret rin, thuốc phosphat hữu cơ) nhằm xua đuổi hoặc diệt trừ những côn trùng đã lọt vào.
2.5.2. Diệt trừ
2.5.2.1. Đại cương
Thông thường, cần xây dựng một chiến lược tổng thể bao gồm các biện pháp khác nhau.
Việc diệt trừ có thể bao gồm công tác tiêu diệt hoặc loại trừ côn trùng, bọ ve
a) Trong các gian nhà kho rỗng;
b) Trong các phương tiện vận chuyển rỗng;
c) Trong các thùng chứa (kể cả trong bao tải) trước khi đem đựng hạt;
d) Trong hạt.
2.5.2.2. Các phương pháp cơ học và vật lý
Hạt có thể được:
a) Cho qua sàng để loại bỏ côn trùng và bọ ve sống tự do;
b) Xử lý bằng bụi trơ;
c) Sấy (nhưng cần lưu ý một điểm là có sự khác nhau rất nhỏ giữa nhiệt độ cần thiết để diệt côn trùng và nhiệt độ có thể gây hỏng hạt);
d) Xử lý bằng tia phóng xạ gamma, bằng sóng điện từ cao tần hoặc bằng dòng điện tử cao tốc;
e) Xếp trong các kho kín khí có thể làm côn trùng chết khi hàm lượng ôxy trong không khí giảm xuống dưới 2%;
f) Xếp trong môi trường không khí nhân tạo có kiểm tra;
g) Thông gió nhằm giảm nhiệt độ và/hoặc độ ẩm của hạt.
2.5.2.3. Các phương pháp sinh học
Chỉ có rất ít trường hợp dùng phương pháp diệt trừ sinh học (ví dụ dùng các loài côn trùng khác để tiêu diệt, kí sinh trùng, côn trùng gây bệnh) có thể đem lại tác dụng diệt trừ côn trùng hại hạt vì các quần thể côn trùng thường đạt tới mức ổn định khá cao, khó có thể bị xâm hại. Loài vi khuẩn Bacillus thuringiensis thường được sử dụng trong trong thương mại để diệt trừ sâu mọt trong quá trình bảo quản lúa mì, ngô, lúa miến, thóc gạo, đậu nành.
2.5.2.4. Phương pháp hoá học
Hoá chất được sử dụng dưới hai hình thức chính là thuốc trừ sâu tiếp xúc và thuốc xông hơi.
2.5.2.4.1. Thuốc diệt côn trùng
Các loại thuốc trừ sâu và trừ rầy tiếp xúc dư được sử dụng dưới dạng bụi, nhũ tương dầu trong nước hoặc dạng xịt nước, xông khí hoặc khói – có tác dụng làm cho bề mặt của các kho rỗng, phương tiện vận chuyển, tàu, thùng chứa chở hàng và các thiết bị chuyển tải trở nên độc đối với côn trùng và bọ ve.
Khi côn trùng và bọ ve bò qua các bề mặt đó sẽ bị dính một lượng thuốc độc đủ giết chúng chết trước khi kịp tiếp cận với hàng hoá được bảo vệ. Biện pháp này có hiệu quả chống các loài côn trùng, bọ ve biết bò. Thời gian thuốc có tác dụng phụ thuộc vào đặc tính của bề mặt, nhiệt độ, độ ẩm không khí và mức độ tiếp xúc với ánh sáng. Các loài côn trùng bay có thể bị tiêu diệt bằng xông khí hoặc khói xông khi chúng đang bay, hoặc khi chúng đậu xuống bề mặt đã được xử lý thuốc; các loài côn trùng bay và các loài sống trên bề mặt hàng hoá có thể bị diệt trừ bằng thuốc sâu bay hơi là loại trung gian giữa thuốc sâu tiếp xúc và thuốc sâu xông hơi.
Có thể trộn một vài loại thuốc sâu, thuốc rầy vào hạt dưới dạng bụi hay xịt nước. Tuy nhiên, vì có thể gây nguy hiểm cho sức khoẻ con người nên danh sách các loại thuốc có thể dùng để trộn như vậy rất hạn chế (xem 3.5.2.4..3).
2.5.2.4.2. Thuốc xông hơi
Việc diệt trừ chuột bọ ẩn trong ngóc ngách kho tàng, xe chở hàng, trong các bao tải rỗng cũng như trong bản thân ngũ cốc xếp dưới dạng đống rời hay đựng trong bao… thì có thể đạt hiệu quả nhờ sử dụng thuốc xông hơi. Loại thuốc này có tác dụng tiêu diệt dưới thể khí, mặc dù chúng có thể được sử dụng dưới dạng rắn hoặc lỏng, và thường không còn tác dụng dư đối với sâu mọt, bọ ve sau khi hơi thuốc đã tan hết.
Nói cibm hơi thuốc cũng gây độc cho người, do đó chỉ có những người đã qua đào tạo chính quy, biết được mức độ nguy hiểm và các biện pháp an toàn cần thiết mới được sử dụng thuốc.
2.5.2.4.3. Dư lượng thuốc trừ sâu
Việc bán và sử dụng thuốc trừ sâu được nhà nước kiểm soát. Trong các văn bản quy định, nhà nước luôn nhắc nhở về khả năng thuốc có thể nhiễm bẩn cho sản phẩm nó bảo vệ. Trong các quy định đó cũng đều quan tâm đến các kiến nghị của tổ chức FAO/WHO Codex Alimentarius Commission về giới hạn dư lượng trong thực phẩm. Chỉ có những loại thuốc trừ sâu được phê chuẩn chính thức theo cách thức đó mới được đem sử dụng trong bảo quản hạt, hoặc đem trộn với đậu hạt hay ngũ cốc, và ngay trong trường hợp chúng được sử dụng vẫn cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn của nhà sản xuất và quy định củanhà nước.
Khi sử dụng thuốc trên tàu, cần lưu ý đến các kiến nghị của Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO).
Cuối cùng, cần xem xét cả những yêu cầu của khách hàng trong nước và nước ngoài về sử dụng thuốc trừ sâu (ví dụ một vài hãngsản xuất mạch nha đòi hỏi có giấy chứng nhận trong lúa mạch không chứa malathion).
PHỤ LỤC A
ĐIỀU KIỆN GIỚI HẠN VÀ TỐI ƯU CHO MỘT SỐ SÂU MỌT VÀ VẬT HẠI NHỎ SINH SẢN TRONG NGŨ CỐC VÀ ĐẬU HẠT KHI BẢO QUẢN
Loại côn trùng |
Tên thông dụng |
Tối thiểu |
Tối ưu |
Tốc độ sinh sản tối đa trong một tháng |
Tính nhạy cảm của sản phẩmtrước sự xâm nhập |
|||||||
Nhiệt độ oC |
Độ ẩm tương đối % |
Nhiệt độ oC |
Độ ẩm tương đối % |
C |
C+ |
C++ |
c |
P |
p |
|||
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13 |
Acanthoscelides obtec-tus (Say) |
Mọt đỗ khô |
17 |
30 |
27 to 31 |
65 |
25 |
|
|
|
|
+ |
|
Acarus siro L |
Bọ bột mì |
23 |
65 |
21 to 27 |
80 |
2500 |
|
+ |
|
+ |
+ |
+ |
Callosobruchus chinensis (L) |
Mọt đậu bò |
19 |
30 |
28 to 32 |
60 |
30 |
|
|
|
|
+ |
|
Callosobruchus maculatus (F) |
Mọt đậu bò |
22 |
30 |
30 to 35 |
50 |
50 |
|
|
|
|
+ |
|
Corcyra cephalonica (Staint) |
Sâu gạo |
18 |
30 |
28 to 32 |
30 |
10 |
|
+ |
|
+ |
|
|
Cryptolestes ferrugineus (Steph.) |
Mọt rỉ sắtngũ cốc |
23 |
10 |
32 to 35 |
65 |
60 |
|
+ |
|
+ |
|
|
Cryptolestes pusillus (Schon.) |
Mọt hạt dẹt |
22 |
60 |
28 to 33 |
70 |
10 |
|
+ |
|
+ |
|
|
Ephestia cautella (Wlk.) |
Sâu mái che nhiệt đới |
17 |
25 |
28 to 32 |
60 |
50 |
|
+ |
|
+ |
|
|
Ephestia elutella (Hubn) |
Sâu mái che |
10 |
30 |
25 |
70 |
15 |
|
+ |
|
+ |
|
+ |
Ephestie kuehniella Zeller |
Sâu bột mì địa trung hải |
10 |
1 |
24 to 27 |
65 |
50 |
|
+ |
|
+ |
|
|
Lasioderma senicorne (F.) |
Mọt thuốc lá |
22 |
30 |
32 to 35 |
55 |
20 |
|
|
|
+ |
+ |
|
Latheticus oryzae Wateth. |
Mọt bột mì dài đầu |
26 |
30 |
33 to 37 |
– |
10 |
|
|
+ |
+ |
|
|
Oryzaephiluss surina-mensis (L.) |
Mọt răng cưa |
21 |
10 |
31 to 34 |
65 |
50 |
|
+ |
|
+ |
|
|
Plodia interpunctella (Hubn) |
Sâu ấn Độ |
18 |
40 |
28 to 32 |
– |
30 |
|
+ |
|
+ |
|
|
Ptinus tectus Boield |
Sâu quăng úc |
10 |
50 |
23 to 26 |
70 |
4 |
|
+ |
|
+ |
|
+ |
Rhizopertha dominica (F.) |
Mọt gạo nhỏ |
23 |
30 |
32 to 36 |
50 |
20 |
+ |
|
|
+ |
|
|
Sitophilus granarius (L.) |
Mọt hạt |
15 |
50 |
28 to 30 |
70 |
15 |
+ |
|
|
|
|
|
Sitophilus granarius |
Mọt hạt |
15 |
50 |
26 to 30 |
70 |
15 |
+ |
|
|
|
|
|
Sitophilus oryzae (L.) |
Mọt gạo |
17 |
60 |
27 to 31 |
70 |
25 |
+ |
|
|
|
|
|
Sitotroga cerealella (Oliv.) |
Sâu Angou – mois |
16 |
30 |
26 to 30 |
– |
50 |
+ |
|
|
|
|
|
Tribolium castaneum (Herbst.) |
Mọt rỉ sắt bột mì |
22 |
1 |
32 to 35 |
65 |
70 |
|
|
+ |
+ |
|
+ |
Tribolium confusum Duv. |
Mọt bộ mì |
21 |
1 |
30 to 33 |
50 |
60 |
|
|
+ |
+ |
|
+ |
Trogoderma granarium Everts. |
Mọt khapra |
24 |
1 |
33 to 37 |
45 |
12,5 |
+ |
|
|
+ |
+ |
+ |
Zabrotes subfasciatus (Boh.) |
|
22 |
30 |
29 to 33 |
50 |
20 |
|
|
|
|
+ |
|
(1) Ghi chú:
C- hạt nguyên không bị vỡ
C+ – mầm hạt
C++ – hạt bị sứt hoặc bị côn trùng khác xâm nhập
c- sản phẩm từ ngũ cốc
P – hạt đậu nguyên
p – sản phẩm từ đậu hạt